Điều trị u hạt bẹn bằng kháng sinh liên tục trong 3 tuần sẽ giúp lành mô tổn thương, viêm loét ở bộ phận sinh dục và vùng da xung quanh. Tùy từng loại kháng sinh dùng sẽ có liều lượng uống khác nhau.
Bệnh u hạt bẹn là gì?
U hạt bẹn là một bệnh lây truyền qua đường tình dục (STD) hiếm gặp ở Hoa Kỳ. Khi mắc bệnh u hạt bẹn, bộ phận sinh dục bị ảnh hưởng 90%. Vị trí phổ biến nhất mà nam giới bị ảnh hưởng là bao quy đầu và hậu môn. Các vị trí phổ biến nhất mà phụ nữ bị ảnh hưởng là môi âm đạo, cổ tử cung và đường sinh dục trên. Bệnh nhân mang thai trải qua sự tiến triển nhanh hơn của các tổn thương u hạt bẹn và đáp ứng điều trị chậm hơn so với mọi người.
Nguyên nhân gây bệnh u hạt bẹn
Bệnh u hạt bẹn do vi khuẩn Klebsiella hạt gây ra. Bệnh thường gặp ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới như Đông Nam Ấn Độ, Guyana và New Guinea. Có khoảng 100 trường hợp bệnh được phát hiện mỗi năm ở Hoa Kỳ. Hầu hết các trường hợp này xảy ra ở những người đã đi du lịch đến hoặc đến từ những nơi phổ biến bệnh. Bệnh lây lan chủ yếu qua quan hệ tình dục qua đường âm đạo hoặc hậu môn. Rất hiếm khi nó lây lan khi quan hệ tình dục bằng miệng.
Nguyên nhân phổ biến nhất của bệnh u hạt bẹn là do tiếp xúc tình dục với những người bị nhiễm vi khuẩn Klebsiella. Một số yếu tố nguy cơ có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng bao gồm có nhiều bạn tình và quan hệ tình dục không an toàn. Trong một số trường hợp hiếm gặp, vi khuẩn cũng có thể lây truyền qua phân hoặc tiếp xúc trực tiếp giữa da với da. Vì lý do này, bệnh u hạt bẹn cũng có thể gặp ở trẻ nhỏ và người lớn không hoạt động tình dục.
Ai có nguy cơ mắc bệnh u hạt bẹn?
Hầu hết những người mắc bệnh u hạt bẹn là những người trưởng thành có hoạt động tình dục trong độ tuổi từ 20 đến 40. Tuy nhiên, đã có một số trường hợp xảy ra ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Những trường hợp này có thể do tiếp xúc với người lớn bị nhiễm bệnh hoặc người mẹ bị nhiễm bệnh khi sinh con.
Triệu chứng u hạt bẹn điển hình
Các triệu chứng bệnh u hạt bẹn thường xuất hiện từ 1 đến 12 tuần sau khi người bệnh tiếp xúc với vi khuẩn. Các triệu chứng có thể bao gồm:
- Vết loét ở vùng hậu môn
- Những vết sưng nhỏ, màu đỏ trên bộ phận sinh dục hoặc xung quanh hậu môn
Lớp da vùng bẹn dần dần bị mòn đi và các vết sưng tấy biến thành những nốt sần nổi lên, màu đỏ như thịt bò, mịn được gọi là mô hạt. Chúng không gây đau đớn nhưng dễ chảy máu nếu chạm vào. Bệnh lây lan từ từ và phá hủy mô sinh dục. Tổn thương mô có thể lan đến háng. Bộ phận sinh dục và vùng da xung quanh bị mất màu da. Ở giai đoạn đầu, có thể khó phân biệt được sự khác biệt giữa bệnh u hạt bẹn và bệnh hạ cam (là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính, lây truyền qua đường tình dục. Biểu hiện đặc trưng của bệnh là một vết loét đau nơi vi khuẩn xâm nhập, thường là vùng sinh dục ngoài và viêm hạch bẹn mủ)

Xét nghiệm chẩn đoán bệnh u hạt bẹn
Bác sĩ sẽ hỏi về tiền sử bệnh và các triệu chứng của bạn. Họ sẽ khám sức khỏe để tìm vết loét trên và xung quanh vùng sinh dục của bạn.
Bác sĩ sẽ đặt ra các câu hỏi sau khi nghi ngờ bạn bị u hạt bẹn:
- Bạn đã tiếp xúc với người ở vùng xảy ra bệnh u hạt bẹn chưa?
- Bạn đã đến thăm khu vực xảy ra tình trạng này chưa?
- Bạn có quan hệ tình dục với người bị u hạt bẹn không?
Để giúp chẩn đoán bệnh u hạt bẹn chính xác, bác sĩ có thể thực hiện 1 trong những biện pháp sau:
- Cạo vết loét ở bộ phận sinh dục để lấy mẫu dịch lỏng. Họ sẽ kiểm tra mẫu dưới kính hiển vi.
- Lấy mẫu mô (sinh thiết) bằng kẹp hoặc dao mổ. Họ sẽ xem xét mô này dưới kính hiển vi.
- Lấy mẫu máu để loại trừ các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác.

Điều trị u hạt bẹn như thế nào?
Thuốc kháng sinh là phương pháp được sử dụng để điều trị bệnh u hạt bẹn. Chúng có thể bao gồm: Azithromycin, Doxycycline, Ciprofloxacin, Erythromycin, Trimethoprim-sulfamethoxazole. Điều trị đầu tiên là azithromycin 1 g, sau đó là 500 mg mỗi ngày.
Một số phác đồ điều trị thay thế người bệnh có thể dùng với từng loại thuốc với liều lượng như sau:
Doxycycline 100 mg uống 2 lần/ngày trong ít nhất 3 tuần cho đến khi tất cả các tổn thương lành hoàn toàn.
Hoặc
Erythromycin base 500 mg uống 4 lần/ngày trong >3 tuần và cho đến khi tất cả các tổn thương lành hoàn toàn.
Hoặc
Trimethoprim-sulfamethoxazole một viên nén nồng độ gấp đôi (160 mg/800 mg) uống 2 lần/ngày trong > 3 tuần và cho đến khi tất cả các tổn thương lành hẳn.
Hoặc
Ciprofloxacin 750 mg ngày 2 lần trong > 3 tuần và cho đến khi tất cả các tổn thương lành hẳn.
Những bệnh nhân đáp ứng chậm cũng có thể được dùng gentamicin 500 mg mỗi 8 giờ. Erythromycin là thuốc được lựa chọn trong thai kỳ. Không có thay đổi nào trong khuyến cáo dành cho bệnh nhân nhiễm HIV.
Hướng dẫn Châu Âu năm 2016 về điều trị bệnh u hạt bẹn nêu rõ rằng nên dùng kháng sinh trong tối thiểu 3 tuần và cho đến khi hết triệu chứng. Họ cũng khuyến nghị dùng azithromycin là phương pháp điều trị đầu tiên, ban đầu có thể dùng 1 g, sau đó 500mg mỗi ngày hoặc 1g mỗi tuần. Trẻ em nên được dùng azithromycin 20mg/kg trong một đợt điều trị bệnh hoặc dự phòng trong 3 ngày nếu bị phơi nhiễm trong khi sinh.
Nghiên cứu đầu tiên chứng minh tính hiệu quả của azithromycin được thực hiện bởi Bowden et al. giữa tháng 6 năm 1994 và tháng 3 năm 1995 tại Úc. 7 bệnh nhân nhận được 1g azithromycin hàng tuần trong 4 tuần và 4 bệnh nhân nhận được 500 mg azithromycin mỗi ngày trong 7 ngày. Sau 6 tuần, 3 bệnh nhân dùng 1g azithromycin và 1 bệnh nhân dùng 500 mg azithromycin đã khỏi bệnh, và tất cả những người còn lại tham gia nghiên cứu đều được cải thiện đáng kể.
Điều trị sớm giúp ngăn ngừa tổn thương mô hoặc sẹo. Để chữa khỏi bệnh cần phải điều trị lâu dài, ít nhất 3 tuần. Bệnh có thể tái lại từ 6 đến 18 tháng sau khi bạn dùng xong thuốc kháng sinh. Ngay cả khi việc điều trị của bạn có vẻ thành công, bạn vẫn nên tiếp tục đến gặp bác sĩ thường xuyên để kiểm tra. Bạn nên dừng mọi hoạt động tình dục cho đến khi hoàn tất điều trị và vết loét lành hẳn.
Nếu bệnh u hạt bẹn không được điều trị, vết loét sẽ tiếp tục phát triển từ từ và có thể phá hủy những vùng da khỏe mạnh bên cạnh, gây sẹo và thâm, nhiễm trùng vào mạch bạch huyết xung quanh. Nhiễm trùng lâu dài gây nguy cơ ung thư bộ phận sinh dục. Trong những tình huống này, phẫu thuật có thể được yêu cầu để loại bỏ các vết loét liên quan.
Các biến chứng có thể xảy ra khi bị u hạt bẹn
Các vấn đề sức khỏe có thể xảy ra do căn bệnh này bao gồm:
- Tổn thương bộ phận sinh dục và để lại sẹo
- Mất màu da ở vùng sinh dục
- Sưng bộ phận sinh dục vĩnh viễn do sẹo
- Ung thư bộ phận sinh như ung thư dương vật, ung thư âm hộ hoặc ung thư âm đạo.
- Thu hẹp (hẹp) hậu môn, niệu đạo hoặc âm đạo của bạn.
- Viêm tủy xương
- Viêm đa khớp,
- Nhiễm trùng khoang bụng
- Chảy máu âm đạo.
Khi nào cần liên hệ với bác sĩ?
Liên hệ với bác sĩ hoặc đến ngay bệnh viện khi:
- Bạn đã có quan hệ tình dục với một người được biết là mắc bệnh u hạt bẹn
- Bạn phát triển các triệu chứng của bệnh u hạt bẹn
- Bạn bị loét ở vùng sinh dục
U hạt bẹn có thể lan đến bụng, xương hoặc gan của bạn. Nếu xuất hiện các dấu hiệu sau, bạn cũng cần đến bệnh viện để được kiểm tra:
- Thiếu máu.
- Cảm giác ớn lạnh.
- Mê sảng.
- Nhịp tim nhanh
- Mệt mỏi.
- Sốt.
- Đổ mồ hôi ban đêm.
- Khó thở
- Sụt cân không rõ nguyên nhân.
Phòng ngừa u hạt bẹn
Tránh mọi hoạt động tình dục là cách tuyệt đối duy nhất để ngăn ngừa bệnh u hạt bẹn tuy nhiên điều này không khả thi. Việc quan hệ tình dục an toàn với 1 bạn tình/vợ có thể làm giảm nguy cơ của bạn. Việc sử dụng bao cao su đúng cách, dù là loại dành cho nam hay nữ, sẽ làm giảm đáng kể nguy cơ mắc u hạt bẹn và các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục. Bạn cần đeo bao cao su từ đầu đến cuối mỗi lần quan hệ tình dục.
Nguồn: www.osmosis.org
www.ncbi.nlm.nih.gov
my.clevelandclinic.org
medlineplus.gov

